Đối với những bệnh nhân trầm cảm, nếu phải sống trong những yếu tố môi trường không thuận lợi, nhất là lại gặp sự cố về kinh tế, xã hội thì tỷ lệ dẫn đến tự sát rất cao: lên đến 20 – 30%.
Tổng quan về trầm cảm
Trầm cảm là cảm giác buồn sâu sắc, có thể xảy ra sau một chuyện buồn hay do các sự cố không vui nhưng mức độ buồn và kéo dài quá mức thông thường, không tương ứng với sự cố. Thời gian gần đây, Tổ chức Y tế Thế giới đã cảnh báo về sự phổ biến bệnh lý trầm cảm ở con người. Tỷ lệ này vào khoảng 4%, tức có khoảng 250 triệu người trên trái đất mắc phải. Ở Việt Nam, tỷ lệ này cũng lên đến 2 – 5%.
Đối với những bệnh nhân trầm cảm, nếu phải sống trong những yếu tố môi trường không thuận lợi, nhất là lại gặp sự cố về kinh tế, xã hội thì tỷ lệ dẫn đến tự sát rất cao: lên đến 20 – 30%.
Trầm cảm ở nam: Thường bị bỏ qua, không được chẩn đoán. Thông thường, dễ bị trầm cảm sau khi bị stress (căng thẳng trong công việc, hôn nhân tan vỡ, người thân chết, thay đổi chỗ ở hay có vấn đề về kinh tế…). Nam cũng nhạy cảm hơn nữ với những biến đổi về kinh tế, xã hội, chính trị có ảnh hưởng vai trò truyền thống của nam ở gia đình và nơi làm việc và từ đó tăng nguy cơ bị trầm cảm và các bệnh tâm trí khác. Người ta nhận thấy vào thập kỷ 30 thế kỷ trước, thời kỳ suy thoái toàn cầu, tỷ lệ nam giới tự tử đã tăng lên vì nhiều người thất nghiệp.
Trầm cảm làm cho người ta tối tăm trong tư duy, xói mòn cuộc sống và nghề nghiệp của cá thể và tăng nguy cơ bị nhiều bệnh khác. Nguy hại nhất là nguy cơ tự sát khi nam giới bị trầm cảm, nhiều hơn nữ gấp 4 lần.
Mỗi khi đi khám bệnh, nam giới cũng có xu hướng chối cãi mình có vấn đề về tâm trí, một phần là do không muốn mang tiếng bị bệnh tinh thần, sợ ảnh hưởng đến nghề nghiệp, mất uy tín trước bạn bè và gia đình… Nam giới vẫn thường phải chịu áp lực về sự thành đạt trong đời; nếu không làm được điều này (bị lép vế trong gia đình hay ở cơ quan) thì nhiều người đã ôm nỗi buồn đó một cách lặng lẽ và không muốn ngỏ cùng ai. Điều này trái với nữ, họ dám bộc lộ, chia sẻ với thầy thuốc những phiền não của mình cho nên người ta mới thường cho là trầm cảm chủ yếu thấy ở nữ. Với cả hai giới, các dấu hiệu và triệu chứng thường thấy là cảm giác mình là người vô tích sự (đồ bỏ), ít ngủ, buồn, mặc cảm phạm tội.
Những nhà nghiên cứu Thụy Điển đã mô tả “hội chứng trầm cảm ở nam” bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng như: Dễ bị stress, có những cơn giận dữ đột ngột, giảm khả năng kiểm soát bản thân, hành vi chống xã hội, không thể quyết định được việc gì, cảm giác luôn sốt ruột và trống rỗng.
Trầm cảm ở phụ nữ: Có những triệu chứng như: Buồn, âu sầu hoặc hay khóc; thờ ơ, không thấy thích thú gì với những công việc vẫn làm (kể cả chuyện tình dục); có cảm giác phạm tội, tuyệt vọng hoặc thấy mình chẳng có giá trị gì, có ý nghĩ tự tử, ngủ quá nhiều hoặc không ngủ được hoặc ngủ li bì đánh thức cũng không tỉnh; không có cảm giác thèm ăn và gầy đi hoặc ăn quá nhiều và béo lên; cảm giác mỏi mệt rã rời hoặc uể oải – không tập trung chú ý được và không quyết định được việc gì; cảm thấy trên thân thể đau đớn mà điều trị cũng không đỡ.
Hậu quả của trầm cảm nếu không được điều trị.
Có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống. Stress kéo dài gây tổn thương cho nhiều cơ quan, kể cả tim. Tuổi thọ có thể giảm, trong một thời gian nhất định, số tử vong ở người trầm cảm gấp đôi so với người không bị trầm cảm. Tỷ lệ ly hôn, tự tử và có hành vi liều lĩnh cũng tăng… Trong công việc, trầm cảm làm cho nam giới làm việc kém năng suất, hạn chế khả năng và có nguy cơ mất việc.
Các nguyên nhân gây trầm cảm có thể xếp vào 3 nhóm chính:
1. Trầm cảm nội sinh (còn gọi là trầm cảm chưa rõ nguyên nhân): Có nhiều giả thuyết cho là do di truyền, miễn dịch, môi trường sống và yếu tố xã hội… nhưng chưa có giả thuyết nào có tính thuyết phục.
2. Trầm cảm do stress: Chẳng hạn nhưkhi mất việc làm, mâu thuẫn trong gia đình, con cái hưhỏng, bị trù dập ở nơi làm việc, làm ăn thua lỗ, bị phá sản hoặc có người thân chết đột ngột…
3. Trầm cảm do các bệnh thực tổn:
– Các rối loạn nội tiết:
• Giảm năng tuyến giáp (hypothyroidism)
• Bệnh đái đường
• Hội chứng Cushing
– Các rối loạn thần kinh:
• Các tai biến mạch máu não
• Khối máu tụ dưới màng cứng (subdural hematoma)
• Bệnh xơcứng rải rác (multiple sclerosis)
• U não
• Bệnh parkinson
• Bệnh co giật
• Sa sút trí tuệ (dementia)
Bệnh trầm cảm được xếp loại thành nguyên phát nếu như các triệu chứng xuất hiện trước và không liên hệ với bất cứ một bệnh nội khoa hoặc tâm thần có ý nghĩa nào khác. Được coi là thứ phát khi bệnh trầm cảm xảy ra sau và có liên hệ với một bệnh nội khoa hoặc tâm thần khác.
Theo Camnangbenh